Bát chánh đạo là tám con đường chánh. Tu hành theo đúng tám con đường này là đi đúng, đi ngay, đi thẳng đến Niết bàn (Diệt đế = Niết bàn).
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Thất Bồ Đề Phần
TRẠCH PHÁP, TINH TẤN, HỶ, KHINH AN, NIỆM, ĐỊNH, XẢ, nhóm thất Bồ đề phần chỉ có ba đề mục mới : TRẠCH PHÁP, KHINH AN và XẢ. Bốn món còn lại đã có mặt trong các nhóm khác...
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Ngũ Lục
Dựa vào ý nghĩa công dụng chữ “lực” mà suy, thì “ngũ lực” từ “ngũ căn” phát triển năng lực, công dụng vững chắc, lớn mạnh và hiệu quả trên tiến trình tu tập của Sa môn, Khất sĩ. Thế cho nên, TÍN, TẤN, NIỆM, ĐỊNH, TUỆ ấy có tên NGŨ LỰC.
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Ngũ Căn
TÍN, TẤN, NIỆM, ĐỊNH, TUỆ. Ví như năm bộ rễ. Một Sa môn, Khất sĩ dựa vào năm đối tượng thiền định ấy, tư duy quán chiếu thường xuyên liên tục, thì đạo tâm, đạo hạnh, đạo lực ngày thêm vững chắc. Ví như thảo mộc có bộ rễ tốt, khoẻ thì sẽ có gốc tốt, nhánh lá chồi tược sẽ sum suê.
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Tứ Như Ý Túc (1)
TỨ NHƯ Ý TÚC là một thuật ngữ và vừa là một tỉ dụ : Tứ như ý túc ví như bốn trụ cột vững chắc của toà tháp, một lâu đài. Một khất sĩ tu tập thành tựu bốn đối tượng thiền : DỤC, TINH TẤN, HỶ và NHẤT TÂM thì sẽ được vừa lòng (如意 – như ý), sẽ vững chãi bước đi trên đường tu tập.
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Tứ Chánh Cần
Một đạo sĩ thường tu tập an trú trong pháp vui hiện tại đang có. Dù vậy, người hành đạo không được lơi cảnh giác, kiểm điểm thân, khẩu, ý mình trong quá khứ cũng như tương lai. Đó là lý do Phật dạy cho các đệ tử hãy tu tập nhóm trợ đạo : TỨ CHÁNH CẦN.
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Tứ Niệm Xứ (2)
Quán “THỌ thị khổ”. Quán “TÂM vô thường” là hai pháp quán : TÂM và TÂM SỞ hữu. Tâm tổng hợp có tám thứ. Tâm Sở tổng lược có năm mươi mốt.
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Tứ Niệm Xứ (1)
Con đường Đạo đế chở đựng, chuyển tải những điều đức Phật dạy cho những ai đệ tử Phật muốn đi trên con đường quang đãng, thẳng tắp tiến đến đích Niết bàn. Thế nên, ĐẠO ĐẾ là nhân, NIẾT BÀN diệt đế là quả. Đó là cặp phạm trù nhơn quả “xuất thế gian”! Dù vậy, Đạo đế cũng chỉ là pháp “trợ đạo” mà thôi.
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Giải Thoát – Tịnh Độ
GIẢI THOÁT ĐỨC là tên gọi của Niết bàn. Nói rõ ra, giải thoát tức Niết bàn. Giải thoát hay Niết bàn còn gọi là ĐOẠN ĐỨC, với nghĩa sâu sắc là sạch hết, dứt bặc vô minh.
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Diệt Đế
DIỆT cộng ghép thêm chữ TỊCH thành “Tịch Diệt”. Phật nói DIỆT ĐẾ có nghĩa : Phật nói, Phật chỉ dạy về cái chân lý “vắng lặng”, chân lý “dứt hết khổ quả, khổ nhân”, là cảnh giới của người AN LẠC hoàn toàn.
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Trần Sa Hoặc
Hoặc là mê hoặc, sai lầm. Những sai lầm, mê hoặc của chúng sinh thật là nhiều vô số, không đếm hết được.
Như Huyễn Thiền Sư Thích Từ Thông – Tứ Diệu Đế: Kiến Tư Hoặc
Thô hơn “lục thô” là “kiến tư hoặc” . kiến tư hoặc là hai thứ sai lầm trầm trọng của kiếp nhơn sinh. Con người bị đau khổ triền miên, vĩnh viễn lặn ngụp trong tam đồ, lục đạo, do hai thứ sai lầm này ! Tuy nhiên, trong hai thứ sai lầm trầm trọng, một thứ cố hữu, còn một thứ phi cố hữu. Kiến hoặc phi cố hữu. Tư hoặc là thứ sai lầm cố hữu của kiếp hữu tình...!