Đạo Phật Chân Chánh – Kỳ 1: Những Đặc Tính Của Đạo Phật

ĐẠO PHẬT CHÂN CHÁNH

 

Từ ngày thành lập đến nay đã trên 70 năm, tổ chức Gia Đình Phật Tử (GĐPT) vẫn trung thành với mục đích của mình là :”Đào luyện thanh thiếu đồng niên tin Phật thành Phật tử chân chánh, góp phần phụng sự Đạo pháp và xây dựng Xã hội”

Nói đến cụm từ “Phật tử chân chánh” chúng ta không khỏi liên nghĩ đến câu nói nổi tiếng của Bác Hồ :” Muốn có Chủ nghĩa Xã hội phải có con người Xã hội Chủ nghĩa”

Vậy, chư vị Tôn túc tiền bối trong Hội An Nam Phật Học ngày xưa, khi sáng lập ra tổ chức GĐPT với mục đích như vừa nêu, ắt hẳn có dụng ý muốn xây dựng một Đạo Phật chân chánh cho Phật Giáo Việt Nam trong tương lai không xa.

Thế nào là Đạo Phật chân chánh ?

Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta cần tìm hiểu những đặc tính căn bản của Đạo Phật mà qua thời gian trên 2.500 năm đã không còn được hiểu một cách đúng nghĩa nữa. Sau khi đã nắm rõ bản chất của Đạo Phật thì từ đấy, chúng ta mới có thể hiểu thế nào là Đạo Phật chân chánh.

Kỳ I : Những Đặc Tính Của Đạo Phật

Căn cứ vào Tam Tạng Giáo Điển của Đạo Phật;

Căn cứ vào lịch sử cuộc đời Đức Phật Thích Ca;

Căn cứ lịch sử Phật Giáo Ấn Độ và lịch sử phát triển Phật Giáo trên thế giới,

Chúng ta có thể nói mà không sợ lầm về bản chất của Đạo Phật như sau :

 

1-Đạo Phật không phải là tôn giáo nhất thần hay đa thần

Điều này đã được Đức Phật tuyên bố rất sớm : “Ta không phải là một vị thần ban ơn hay giáng họa cho con người – Ta chỉ là Người Giác Ngộ đem những điều đã giác ngộ hướng dẫn lại cho con người”

Phẩm Phương tiện Kinh Pháp Hoa cũng viết :

-“Mười phương chư Phật ra đời nhằm chỉ cho con người hiểu thấu những điều mà chư Phật đã giác ngộ; giúp cho con người thực hành những điều ấy để tự mình đi đến giác ngộ và giải thoát (khỏi đau khổ)”

-”Con đường đưa đến giác ngộ giải thoát chỉ có duy nhất một đường”

-”Tất cả mọi người đều có khả năng giác ngộ giải thoát thành Phật”

 

2-Đạo Phật là con đường đưa đến giác ngộ giải thoát :

Phân tách  hai từ “Đạo Phật” cho chúng ta nghĩa :

-Đạo = con đường

-Phật = (người) giác ngộ

Vậy, Đạo Phật là Con đường đưa đến Giác Ngộ. Con đường này, dù nhanh hay chậm, chắc chắn sẽ đưa những ai đi trên nó đến bến bờ giác ngộ. Có giác ngộ tất nhiên có giải thoát. Một người đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn thì đó chính là một vị Phật (Giác Giả).

Con đường này do chính Đức Bổn Sư Thích Ca, bằng trí tuệ siêu việt, bằng sự nỗ lực tư duy, quán chiều và thực nghiệm qua rất nhiều đời, cho đến đời sống sau cùng, Ngài đã khám phá ra. (Nói: “đời sống sau cùng”là vì một khi Đức Phật đã khám phá ra bản thể chân như của sự sống thì Ngài không còn bị vòng luân hồi của kiếp nhân sinh lôi cuốn vào nữa. Như vậy, gọi là giải thoát khỏi sinh tử)

Con đường (hay chân lý) mà Đức Phật đã truyền bá trong 45 năm tại thế của Ngài không phải do Ngài tự ý đặt để ra theo vọng tưởng hay thiên kiến cá nhân, chúng vốn là những chân lý có sẵn từ khi vũ trụ mới được thành lập, từ khi con người mới xuất hiện tên trái đất, nhưng vì vô minh mà qua bao nhiêu ngàn thiên niên kỷ, con người đã không thấy được, hoặc có thấy cũng chỉ được một phần chớ không toàn diện như những gì mà Đức Phật Thích Ca đã phát hiện ra. Những chân lý này bất di bất dịch, không hề thay đổi theo thời gian và không gian, không hề thay đổi theo màu da, phong tục, tín ngưỡng hay nếp sống của từng dân tộc trên thế giới. Dù từ khi nhân loại còn “ăn lông ở lỗ” cho đến khi nhân loại cực kỳ văn minh tiến bộ, thì những chân lý ấy vẫn như thế; Dù ở Ấn Độ hay Phi Châu, Mỹ Châu, Úc Châu… thì những chân lý ấy cũng không hề thay đổi.

 

3-Đạo Phật không phải là tôn giáo theo nghĩa thông thường :

Đạo Phật bác bỏ thuyết “Thượng đế sáng tạo vạn vật”. Tất cả sự hình thành vật chất trong vũ trụ này, theo Đạo Phật, là do nhân duyên sinh theo phát biểu của Đức Phật như sau “Khi cái này có thời cái kia có; Khi cái này diệt thời cái kia diệt…. Mọi sự sinh diệt đều vô thỉ vô chung (tức không có sự khởi đầu cũng như không có sự kết thúc)”

Do đó, nếu nói theo nghĩa thông thường : “Tôn giáo là sự tín ngưỡng vào thượng đế”  thì Phật Giáo không phải là tôn giáo.

Đạo Phật không truyền bá một đức tin mù quáng hay một sự cầu xin và dựa dẫm vào thượng đế hay thần linh. Người Phật tử là người đi đúng theo con đường Phật đã đi, sống đúng theo những gì Phật đã sống… cho tới khi đạt đến sự giác ngộ và giải thoát hoàn toàn thì lúc ấy người Phật tử sẽ đạt tới vị trí như Thầy mình, tức cũng là một vị Phật.

Đức Phật thường tuyên bố: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”

 

4-Niềm tin trong Đạo Phật khác xa với tín ngưỡng trong các tôn giáo khác :

Các tôn giáo ngoài Đạo Phật đều bắt buộc tín đồ tôn giáo mình tin một cách mù quáng, tin vô điều kiện vào thượng đế, vào tín điều, vào những gì giáo chủ họ đã nói, tin vào những gì các giáo sĩ của họ nói ra.

Niềm tin trong Đạo Phật được thể hiện rõ ràng trong đoạn kinh Kalãma sau đây : “Hỡi các người Kalãma , các ông không nên tin những gì chỉ vì nghe nói lại; Không nên chấp nhận những gì chỉ vì do tập tục cổ phong truyền lại; Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì có lời đồn đãi như vậy; Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách; Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình ức đoán và suy diễn như vậy; Không nên chấp nhận điều gì chỉ do bề ngoài; Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến của mình; Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hình như có thể chấp nhận được; Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghĩ rằng vị tu sĩ thốt ra điều này đã được ta kính trọng từ trước.

Tuy nhiên, khi tự các ông hiểu rõ rằng: những điều này không hợp luân lý, những điều này đang bị khiển trách, những điều này bị các bậc thiện tri thức cấm đoán, nếu thực hành những điều này sẽ bị phá sản và phiền muộn… thì hẳn các ông phải từ bỏ, không làm những điều ấy.

Khi tự các ông hiểu rõ rằng: những điều này hợp luân lý, những điều này không bị khiển trách, những điều này được các bậc thiện tri thức tán dương, nếu thực hiện những điều này sẽ được an vui hạnh phúc… thì các ông hãy tin và làm theo đúng như vậy”

 

5-Đạo Phật không phải để cầu xin và cũng không dạy cầu xin :

Từ khi xuất gia tìm đạo cho đến lúc giác ngộ hoàn toàn và thành Phật, sử sách không hề mô tả trường hợp nào sa môn Cồ Đàm (tức Đức Phật) lễ bái, khấn nguyện hay cầu xin một đấng thiêng liêng nào. Sử sách chỉ cho chúng ta thấy Ngài nỗ lực tu học vất vả như thế nào để được giác ngộ. Đạo quả “Phật” là kết quả của quá trình tư duy, quán chiếu, thiền định và thực nghiệm suốt một thời gian dài (Theo kinh điển Pali, thời gian tu học của Ngài là 6 năm – Theo kinh điển Sancrit mô tả Ngài bỏ ra 5 năm để theo học đạo nơi các đạo sư danh tiếng nhất thời bấy giờ, sau đó Ngài tu khổ hạnh 6 năm trong rừng già, tổng cộng thời gian đi tìm chân lý của Ngài là 11 năm)

Đức Phật, từ khi thu nhận người đệ tử đầu tiên cho đến người đệ tử cuối cùng, không bao giờ Ngài dạy đệ tử cầu xin bất cứ ai (kể cả Đức Phật) để được giác ngộ và giải thoát. Cho tời giờ phút cuối cùng trước khi  đi vào Vô Dư Niết Bàn, Đức Phật còn căn dặn các đệ tử như sau : “Này các tỷ kheo, hãy thường nhất tâm nỗ lực cần cầu tuệ giác, giải thoát…” – "Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở  một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..".    (Kinh Di Giáo)

 

6-Đạo Phật không phải là triết học :

Đức Phật không truyền dạy một lý thuyết triết học cách mạng. Giáo lý của Ngài được diễn tả bằng những lời lẽ rõ ràng không thể nhầm lẫn. Đức Phật giải thích những gì bên trong và bên ngoài con người, có liên quan đến sự giải thoát ra khỏi những đau khổ của đời sống. Đức Phật chỉ dạy những điều mà Ngài xét là cần thiết để gội rửa tâm cho trong sạch. Ngài không bao giờ bàn đến các vấn đề trừu tượng, xa xăm, không liên quan đến con đường giác ngộ và giải thoát mà Ngài đã đặt ra.

Giáo lý Đức Phật dạy, dầu có tinh cách luân lý hay triết lý… nhưng tất cả là để học hỏi, thực hành và trên tất cả, là để chứng ngộ bằng trực giác các chân lý của đời sống.  Nói chung, triết học liên quan đến sự hiểu biết và không chú ý đến phần thực hành, trong khi đó Đạo Phật đặc biệt quan tâm đến thực hànhchứng ngộ.

 

7-Sự phát triển từ Phật Giáo Nguyên Thủy sang Phật Giáo Đại Thừa:

Sau khi Phật nhập diệt khoảng 300 – 600 năm, do rất nhiều điều kiện nội tại lẫn khách quan,  một trào lưu tư tưởng mới xuất hiện trong nội bộ Phật Giáo Ấn Độ khiến Đạo Phật thời kỳ ấy chia ra ít nhất 22 bộ phái với những tư tưởng khác nhau từ ít đến nhiều.  Dần về sau, các bộ phái nhỏ hợp nhất hoặc tan rả để cuối cùng còn lại hai hệ phái lớn tồn tại đến ngày nay :

1)Phật Giáo Nguyên Thủy lấy Kinh tạng Pali làm tư tưởng chủ đạo, phát triển chủ yếu ở các nước phía Nam Á Châu nên thường được gọi là Phật Giáo Nam Tông

2)Phật Giáo Đại Thừa lấy Kinh tạng Sancrit làm tư tưởng chủ đạo , phát triển chủ yếu ở các nước Đông-Bắc Á Châu nên thường được gọi là Phật Giáo Bắc Tông

 

Trên đây là một số đặc điểm căn bản của Đạo Phật.

Kỳ sau, chúng ta sẽ tìm hiểu khái quát về sự giống nhau và khác nhau giữa hai Kinh tạng Pali và Sancrit.

An Giang

Xem thêm